Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế, hàng năm, tỉnh đều xây dựng kế hoạch cụ thể về bảo vệ môi trường (BVMT), đồng thời, ban hành một số chính sách và quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường, nhằm cụ thể hoá các chính sách, quy định của Nhà nước phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Đến nay, hầu hết các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh đều thực hiện việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt hoặc xác nhận theo quy định. Tỉnh đã xây dựng Quy hoạch quản lý chất thải rắn đến năm 2010 và định hướng đến 2020. Công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt ở các khu, cụm dân cư đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, do việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp, quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh, nhận thức về BVMT và phát triển bền vững ở một số địa phương, doanh nghiệp chưa đầy đủ nên vẫn tồn tại những vấn đề môi trường gây bức xúc trong dư luận.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh mới đầu tư được 2 trạm xử lý nước thải Cái Dăm và Hà Khánh với tổng công suất trên 10.000m3/ngày và chỉ xử lý nước thải tại 7 phường của thành phố. Các địa phương khác hầu hết chưa có hệ thống thu gom nước thải tập trung. Thêm vào đó, nước thải sinh hoạt của các hộ dân mới chỉ được xử lý cục bộ; nước thải bề mặt được thu gom cùng hệ thống thoát nước thải sinh hoạt qua các hệ thống cống, rãnh chung thải ra môi trường. Nghiêm trọng hơn, qua khảo sát của cơ quan chức năng một số lưu vực nước tiếp nhận nước thải đã có biểu hiện và tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường như: các kênh rạch khu vực Hà Nam, sông Mông Dương, sông Trới, sông Hà Cối, khu vực nước biển ven bờ khu vực Hạ Long – Cẩm Phả, cảng Cái Rồng, sông Ka Long…
Các dự án, công trình bảo vệ môi trường sử dụng nguồn kinh phí trích từ nguồn thu phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản tiến độ triển khai dự án còn chậm. Việc xử lý không bắt đầu từ nguồn thải, không có trạm xử lý nước thải tập trung, một số dự án đã được phê duyệt nhưng chưa bố trí vốn nên hiệu quả chưa cao. Đặc biệt, trong quy hoạch hoặc trong báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt tại một số khu đô thị có việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt hoặc đấu nối nước thải sinh hoạt vào hệ thống xử lý nước thải chung. Tuy nhiên, một số chủ đầu tư không triển khai hoặc xây dựng chậm tiến độ như: Khu đô thị ven biển thị trấn Cái Rồng (Vân Đồn), khu dân cư phường Cẩm Bình và Cẩm Thuỷ (Cẩm Phả), khu đô thị mới Hùng Thắng (Hạ Long). Việc xử lý nước thải sinh hoạt thì vậy, đối với nước thải công nghiệp cũng còn nhiều tồn tại. Hiện nay trên địa bàn phần lớn các doanh nghiệp đều có hệ thống thu gom và xử lý sơ bộ trước khi thải ra môi trường. Đơn cử như KCN Cái Lân đã trang bị hệ thống thu gom xử lý nước thải công nghiệp tập trung, một số cơ sở đầu tư hệ thống nước thải công nghiệp hiện đại như: Hệ thống xử lý nước thải của Nhà máy Dầu thực vật Cái Lân… Hầu hết các cơ sở công nghiệp khác chỉ xử lý bằng công nghệ đơn giản như lắng, lọc trước khi thải ra môi trường.
Mặc dù thời gian qua công tác BVMT đã được tỉnh đặc biệt chú trọng, nhất là việc xử lý rác thải nhưng hiện trên địa bàn toàn tỉnh có 17 bãi rác được xử lý theo phương pháp chôn lấp, trong đó chỉ có 3 bãi rác chôn lấp hợp vệ sinh tập trung tại Hạ Long và Cẩm Phả với tổng diện tích là 17ha. Do đó, ở nhiều địa phương tình trạng ô nhiễm môi trường nước, không khí do rác thải sinh hoạt đã gây bức xúc cho người dân, có nơi diễn ra nghiêm trọng như: Các xã thuộc khu vực Hà Nam, bãi rác Cộng Hoà (TX Quảng Yên); bãi rác khu 1, thị trấn Trới (Hoành Bồ), bãi rác Quảng Điền (Hải Hà), bãi rác Vàng Danh (Uông Bí)… Không chỉ vậy, việc thu gom rác thải trên biển cũng còn nhiều bất cập, rác thải tại các khu vực làng chài đã được Ban Quản lý Vịnh Hạ Long tổ chức thu gom, nhưng lại được tập kết tại các chân núi đá nằm trong vùng Di sản. Hơn nữa, rác được xử lý bằng phương pháp đốt dầu gây ảnh hưởng tiêu cực đến cảnh quan sinh thái.
Đặc biệt, ở các xã đảo huyện Vân Đồn rác thải sinh hoạt không được thu gom hoặc có thu gom nhưng không chôn lấp và đốt thủ công dẫn tới nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước biển. Cùng với đó, môi trường tại các cơ sở sản xuất công nghiệp (xi măng, nhiệt điện, cơ sở khai thác đá) cũng đang tồn tại những vấn đề về môi trường. Tại các nhà máy xi măng, nhiệt điện đều đã đầu tư hệ thống lọc bụi túi và lọc bụi tĩnh điện theo cam kết. Tuy vậy, vẫn có thời điểm các nhà máy xi măng, nhiệt điện gây bụi, ảnh hưởng tới môi trường và người dân. Cụ thể, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí – công suất 110MW và 2 dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng của Công ty Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh có công nghệ lạc hậu, không kiểm soát được nồng độ khí thải. Đáng bàn, các công đoạn xúc bốc, vận chuyển vật liệu từ bãi chứa vào máy nghiền liệu đều là dây chuyền hở, rất dễ phát sinh bụi. Nhất là đối với Nhà máy Xi măng Lam Thạch I (lò đứng), được xây dựng và đưa vào sử dụng từ năm 1997, thiết bị đã cũ, dễ xảy ra sự cố hỏng hóc. Mỗi khi xảy ra sự cố đều phát sinh một lượng bụi rất lớn phát tán vào môi trường xung quanh.
Như vậy, có thể thấy mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác BVMT nhưng thực tế vẫn còn những tồn tại, bất cập trên. Vì vậy, thời gian tới rất cần có những giải pháp đồng bộ, cụ thể, hữu hiệu nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Trang Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét