Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Kỳ 2: Để người dân yên tâm gắn bó với quê hương mới


Như đã phản ánh ở kỳ trước, tình trạng nhiều hộ dân ở 2 khu kinh tế mới thuộc xã đảo Ngọc Vừng (huyện Vân Đồn) và phường Hải Hoà (TP Móng Cái) bỏ về quê đã diễn ra từ nhiều năm nay. Qua đây có thể rút ra điều gì trong công tác di dãn dân?

Kỳ 1: Đầu tư thiếu đồng bộ.

Bài toán cho "an cư"

Tìm hiểu kỹ hơn về tình trạng "thôn vắng" ở Ngọc Hải và Bình Ngọc lãnh đạo UBND xã Ngọc Vừng cho biết: Việc nhiều hộ di dân ra đây rồi lại bỏ về quê đã diễn ra từ lâu, song đến nay, vẫn chưa có giải pháp khắc phục. Vị lãnh đạo này đã cung cấp cho chúng tôi nhiều tài liệu liên quan đến quá trình triển khai dự án di dân cũng như khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Quanh ngôi nhà bỏ hoang tại phường Hải Hoà (TP Móng Cái), cây cỏ mọc um tùm.
Quanh ngôi nhà bỏ hoang tại phường Hải Hoà (TP Móng Cái), cây cỏ mọc um tùm.

Ngọc Vừng có diện tích tự nhiên 3.944ha, trước thời điểm triển khai Dự án, diện tích đất chưa sử dụng là 1.458ha, dân số là 116 hộ, 460 nhân khẩu. Ngày 6-11-1996, UBND tỉnh ra Quyết định số 2863/QQĐ-UB phê duyệt Dự án di dân khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven biển và ổn định dân cư xã Ngọc Vừng. Mục tiêu của Dự án di dân ra Ngọc Vừng là để khai thác 726,5ha đất hoang hoá trong tổng số 1.458ha đất chưa sử dụng. Dự án sẽ tiếp nhận 200 hộ dân, trong đó từ tỉnh ngoài 150 hộ. Cơ cấu sản xuất chính trong vùng Dự án là phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản. Quyết định của UBND tỉnh cũng xác định sẽ đầu tư các công trình đê ngăn mặn, vùng sản xuất, cống tiêu kết hợp lấy giống thuỷ sản tự nhiên, hồ đập và kênh mương thuỷ lợi… nhằm phát triển sản xuất, ổn định dân sinh vùng Dự án. Tổng mức đầu tư cho Dự án này là 9,812 tỷ đồng, trong đó vốn chương trình 773 là 7,492 tỷ đồng, vốn ngân sách tỉnh và huyện Vân Đồn là 950 triệu đồng, còn lại là vốn tự huy động và tín dụng. Dự án được giao cho BQL Dự án huyện Vân Đồn thực hiện.

Năm 1998, huyện Vân Đồn tiếp nhận 50 hộ dân từ tỉnh Nam Định; năm 1999, huyện đón thêm 40 hộ nữa từ tỉnh Thanh Hoá chuyển ra. Tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn, lần lượt các hộ đã quay về quê cũ hoặc phiêu bạt nơi khác làm ăn, khiến cho nhiều nơi trong vùng Dự án trở nên hoang vắng. Toàn vùng Dự án hiện chỉ còn 16 hộ, trong đó có 6 hộ nghèo, hầu như không có hộ khá giả. Thiếu nước ngọt, thiếu đất canh tác, đó là những nguyên nhân chính khiến nhiều hộ dân không thể trụ lại vùng đất này. Những hộ ở lại phải sống trong cảnh 3 không "không đường, không nước ngọt, không điện". Ở thôn Ngọc Hải, dù có tới 50 hộ sinh sống, nhưng đến giờ, đường tới khu vực này vẫn đang trong quá trình thi công. Còn nước thì cả thôn chỉ có vài cái giếng, có giếng không có nước. Mọi sinh hoạt của bà con phải trông chờ vào nguồn nước khe chảy từ trên núi xuống. Mùa khô, nước sinh hoạt là bài toán nan giải nhất đối với người dân nơi đây.

Còn Khu kinh tế – quốc phòng do Lâm trường 27 (Sư 327, QK3) xây dựng từ những năm 1999, có tổng diện tích 838ha. Trước khi Lâm trường về đây, toàn vùng này "trắng" dân; kết cấu hạ tầng chỉ có duy nhất tuyến đường cấp phối dài 3,9km. Sau hơn chục năm, đến nay Lâm trường đã đầu tư xây dựng được một số công trình phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho người dân trong vùng. Tuy vậy, số hộ bỏ nhà hoang, hoặc ở nhưng không ổn định vẫn không ít cụ thể có 72/357 hộ. Nguyên nhân là do điều kiện sinh hoạt tối thiểu chưa đảm bảo. Dù Lâm trường đã khoan một số giếng, nhưng tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt diễn ra triền miên; diện tích đất canh tác bị nhiễm mặn nghiêm trọng, nên người dân gặp khó khăn trong sản xuất. Còn nghề nuôi trồng thuỷ sản thì "nay được mai mất", không ít hộ trắng tay sau vài vụ tôm chết hàng loạt. Còn nữa, dù chỉ cách trung tâm thành phố không xa, nhưng nhiều năm nay, các hộ dân ở khu vực cuối nguồn vẫn phải sinh hoạt trong cảnh tối tăm vì thiếu điện.         

Để người dân "lạc nghiêp"

Đầu tư kết cấu hạ tầng và di dãn dân để hình thành các khu kinh tế mới là chủ trương đúng đắn. Tình trạng như ở xã đảo Ngọc Vừng (Vân Đồn), hay Khu Kinh tế – Quốc phòng ở phường Hải Hoà (TP Móng Cái) có thể chỉ là cá biệt, song vẫn đặt ra vấn đề triển khai các cơ chế, chính sách như thế nào để di dãn dân hiệu quả.

Theo phản ánh của lãnh đạo Lâm trường 27 thì sau hơn chục năm triển khai Dự án, sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền địa phương đối với người dân trong vùng Dự án còn rất "mờ nhạt", nếu không muốn nói là "khoán trắng" cho đơn vị. Vì thực tế, các hộ dân chuyển đến định canh, định cư tại phường Hải Hoà đã lâu, nhưng chỉ 84 hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khiến nhiều hộ còn lại chưa yên tâm gắn bó với đồng đất do chính mình khai hoang, phục hoá. Nhiều hộ muốn vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất nhưng do không có "sổ đỏ" để thế chấp nên đành "bó tay". Dù đã có ý kiến chỉ đạo của cấp trên giao cho địa phương phối hợp với Lâm trường khảo sát, xây dựng hệ thống điện lưới quốc gia và ống dẫn nước để nhân dân sinh hoạt, sản xuất nhưng đến nay cũng mới chỉ có vài cột điện được chôn dang dở; còn tuyến ống dẫn nước thì… vẫn nằm trên sổ sách.

Hệ thống điện lưới quốc gia giờ mới được đầu tư vào vùng dự án tại phường Hải Hoà (TP Móng Cái).
Hệ thống điện lưới quốc gia giờ mới được đầu tư vào vùng dự án tại phường Hải Hoà (TP Móng Cái).

Còn ở xã đảo Ngọc Vừng, theo ông Nguyễn Thế Thảo, Trưởng thôn Ngọc Hải và nhiều người dân ở đây thì thực tế thời gian trước đây công tác di dãn dân chưa thực sự được coi trọng. Điều này thể hiện rõ ở việc trước khi thực hiện, cơ quan chức năng chưa tính toán đầy đủ đến tập tục canh tác của người dân ở nơi ở cũ với đặc thù của nơi ở mới. Ví như các hộ di dân đến thôn Bình Ngọc vốn là những hộ thuần nông, quanh năm gắn bó với đồng ruộng, nhưng lại được đưa ra đây sống chủ yếu dựa vào nghề biển(!).

Cũng qua trao đổi với nhiều hộ trong diện di dân và cán bộ một số địa phương, chúng tôi còn thấy rằng, để thực hiện tốt những dự án di, dãn dân thì cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể ở địa phương nơi tiếp nhận dân mới đến cần thường xuyên gần gũi, động viên, giúp họ tháo gỡ những khó khăn ban đầu, nhanh chóng ổn định sinh hoạt để họ yên tâm lao động sản xuất, gắn bó bền chặt với quê hương mới. Chính quyền các địa phương cũng cần tổ chức cho nhân dân khắc phục những khó khăn khi dự án chưa đáp ứng kịp thời được nhu cầu về điện, nước sinh hoạt, nước phục vụ sản xuất. Thực tế đã cho thấy, người dân khi được di dãn đến vùng đất mới, ngoài sự quan tâm động viên thường xuyên của cấp uỷ, chính quyền và người dân địa phương, họ chỉ có thể bám trụ, gắn bó với quê hương mới khi có những điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, khi họ có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình mình bằng một nghề cụ thể. Vì thế, chính quyền địa phương và chủ các dự án di dãn dân cần đặc biệt chú trọng việc hướng dẫn người dân những kiến thức phát triển sản xuất cho phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi ở mới; phải xây dựng được các mô hình phát triển sản xuất cụ thể để người dân thấy tự mình có thể làm theo. Cùng với đó, cán bộ các địa phương tiếp nhận dân kinh tế mới cũng đều có chung đề nghị cần tăng nguồn vốn cho các chương trình, dự án phát triển vùng kinh tế mới, nhất là cho khâu phát triển sản xuất; sửa đổi, bổ sung chính sách di dãn dân cho phù hợp hơn…

Trước khi chia tay xã đảo Ngọc Vừng, các cán bộ xã còn đề nghị chúng tôi thông qua báo chí chuyển đề nghị của cán bộ và nhân dân trong xã tới cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu đưa Ngọc Vừng vào xã bãi ngang theo quy định của Chính phủ để được hưởng những cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội… Thêm một đề nghị nữa là sau khi các hộ từ Thanh Hoá, Nam Định bỏ những ngôi nhà di dân để về quê, nhiều hộ dân trong xã khi muốn cho con cái ra ở riêng, có nhu cầu mua lại những ngôi nhà này nhưng chưa thể. UBND tỉnh đã có quyết định định giá đất khởi điểm để tổ chức đấu thầu cho các mảnh đất, ngôi nhà nói trên (332,9 triệu đồng/mảnh đất, trong đó giá nhà là 253,65 triệu đồng). Tuy nhiên, cũng như nhiều người dân trong thôn, ông Nguyễn Thế Thảo, Trưởng thôn Ngọc Hải cho rằng: "Với giá đất trên, nhiều hộ dân trong thôn không thể mua được. Để không còn cảnh nhà hoang như hiện nay thì cần có cơ chế trả góp hàng năm cho các hộ muốn mua".

Quang Minh – Nguyễn Huế

(Tiếp theo và hết)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét