Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

Ước vọng “rừng cò”


Rừng cò ấy vẫn được người dân gọi là "rừng cò Núi Hứa" vì nó đã tồn tại ở khu vực núi Hứa (thôn Làng Ruộng, xã Đại Bình, Đầm Hà) hơn 30 năm nay. Nhưng nét đặc biệt là "rừng cò" ấy lại nằm trong khu vực rừng bảo vệ của gia đình ông Phạm Văn Hà – gia đình dân quân du kích thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ông Hà tâm sự: "Phải tính thế nào chứ. Hơn 30 năm rồi, tôi tự khoanh nuôi, tự bảo vệ. Tôi yêu quý đàn cò như chính cuộc đời tôi vậy nhưng công bằng mà nói, cuộc sống cũng cần phải có kinh tế. Hơn nữa, tuổi tôi cũng đã cao, sức cũng đã cạn. Nếu không có cách nào hơn, có lẽ tôi sẽ phải sớm phải rời xa đàn cò…". 

Ông Hà nâng niu chú cò con không may rơi khỏi tổ.
Ông Hà nâng niu chú cò con không may rơi khỏi tổ.

Đời người – đời cò

Vợ chồng ông Phạm Văn Hà năm nay cũng xấp xỉ "thất thập" nhưng tình cảm vợ chồng vẫn rất mặn nồng. Khi thì bà chăm sóc, lo lắng cho ông từng ly, từng tý từ bữa ăn đến giấc ngủ; thậm chí, bà rầu ruột khi thấy ông buồn chỉ vì đàn cò bị bắt trộm hoặc vài chú cò con bị ngã tổ… Có khi ông, bà lại liếc xéo nhau hoặc dành cho nhau những câu giận hờn mỗi khi kể về chuyện của thời vẫn còn là dân quân du kích xã.

Nhấp ngụm trà lá (được nấu bằng các loại cây lá mát do ông, bà hái trên rừng), ông Hà chậm rãi kể: "Thời xưa, tôi với bà ấy đều là dân quân du kích xã. Yêu nhau rồi lấy nhau với 2 bàn tay trắng. Năm 1979, từ thôn bên, vợ chồng tôi quyết định chuyển ra thôn Làng Ruộng này để sinh sống. Cũng từ đây mà gắn bó với đàn cò".

Theo lời kể của ông Hà, cơ duyên để ông gắn bó với đàn cò cũng hết sức tự nhiên. Thời kỳ đó, khu vực phía trước cửa nhà ông ở chủ yếu là đầm lầy. Cách đó chừng 2- 3km là bãi sú, vẹt. Lại thêm, gia đình ông được xã giao cho quản lý khu vực rừng tự nhiên rộng chừng hơn 5ha. Đó cũng chính là những điều kiện đầu tiên để đàn cò tìm đến trú ngụ. "Đất lành, chim đậu", ban đầu khu rừng nhà ông chỉ có một vài con cò, sau đó cứ đông dần, đông dần… Giờ khu rừng nhà ông đã có hàng ngàn con bay đến trú ngụ. Điều rất lạ là sau mỗi đợt di cư tránh rét trở về đàn cò chỉ chọn mỗi rừng nhà ông để trú ngụ. Quan sát thấy đàn cò thường thích đậu trên những ngọn cây bạch đàn cao và làm tổ trên những cành cây tre ở dưới tầng thấp, ông Hà đã cẩn thận nhân giống và phát triển thêm những gốc tre trong rừng, tạo thành khu vực khép kín được bao bọc bởi những gốc cây bạch đàn lớn.

Dẫn chúng tôi len lỏi trên những con đường mòn nhỏ rải trắng phân cò, nằm trong cánh rừng bạt ngàn, chằng chịt gốc tre, ông Hà bảo: "Muốn quan sát cò phải đi vào lúc 4-5 giờ sáng khi chúng bắt đầu bay đi kiếm ăn hoặc 5-6 giờ chiều, khi chúng trở về. Đi sang bên phía cánh trái đi. May ra còn gặp được những con cò mẹ đang nuôi con nhỏ, chúng chỉ bay quanh quẩn gần đây kiếm thức ăn để còn mớm mồi cho con". Bỏ lửng câu chuyện, ông Hà chợt như chăm chú lắng nghe. Đưa tay hướng về phía bên trái, ông chậm giãi nói: "Có vài con cò con tập bay bị rớt xuống đất. Chúng ở khu vực đằng kia kìa". Ông phăm phăm bước về phía tay vừa chỉ. Nhặt chú cò con bị rớt xuống đất, ông nhẹ nhàng đưa tay vuốt vuốt như nựng nịu, rồi thật khéo léo, nhẹ nhàng, ông sử dụng chiếc cây 3 chạc – loại dụng cụ chuyên dụng, để đưa chú cò trở về tổ. Dường như lũ cò con đã quen với sự xuất hiện, sự ân cần, chu đáo của "người bảo mẫu già" này nên chúng rất ngoan ngoãn mà không kêu ca, phàn nàn.  

Quan sát công việc của ông, chúng tôi đã cảm nhận rất rõ những tình cảm ông đã dành cho đàn cò. Không kể ngày nắng, hay mưa; thậm chí là bão gió, ông Hà đều đặn có mặt ở khu rừng vừa là để canh giữ, bảo vệ đàn cò khỏi bị "tặc cò" săn bắn, vừa là để kịp thời giúp đỡ nhưng chú cò chẳng may sa tổ. Tình yêu đàn cò của ông đã dần truyền sang vợ ông, con ông, giờ là đến các cháu ông. Tất cả đều ủng hộ và giúp ông cùng chăm sóc, bảo vệ đàn cò. Điều này cũng lý giải vì sao, suốt hơn 30 năm qua, đàn cò vẫn chọn khu rừng nhà ông để trú ngụ và mỗi ngày một tăng thêm về số lượng.

Tiềm năng sẽ được đánh thức?

Theo khảo sát mới đây của UBND huyện Đầm Hà, khu vực cò sinh sống và làm tổ ở Núi Hứa rộng khoảng 1ha với rất nhiều loại, trong đó, chủ yếu là Cò ruồi, Cò ngàng nhỏ, Cò ngàng nhỡ, Cò lùn, Cò xám… Vào mùa đông, khu vực này có khoảng trên 1.000 con nhưng mùa hè, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 – giai đoạn cò di cư tới và cò sinh sản thì số lượng cò thường tăng gấp 3-4 lần. Giá trị của rừng cò Núi Hứa còn được tôn thêm khi Núi Hứa còn là di tích khảo cổ – nơi phát hiện rất nhiều công cụ đá của người tiền sử thời sơ kỳ đá mới, cách ngày nay khoảng 7.000 – 6.000 năm. Thêm nữa, từ năm 1945 – 1954, hang Hố Đen ở Núi Hứa còn được chọn làm căn cứ cho các lực lượng cách mạng trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Với những đặc điểm như vậy, Núi Hứa hứa hẹn sẽ trở thành điểm du lịch lý tưởng. Từ năm 2011, huyện Đầm Hà đã rất tích cực phối hợp cùng với các chuyên gia tiến hành khảo sát, lập hồ sơ đề nghị tỉnh công nhận khu di tích lịch sử Núi Hứa – rừng cò. Hiện cơ quan chức năng cũng đã tiến hành cắm mốc phân giới khoanh vùng để bảo vệ khu di tích này.

Đồng chí Tiêu Công Tám, Phó Chủ tịch UBND huyện Đầm Hà chia sẻ: "Trong ý tưởng và ước vọng của cá nhân tôi nghĩ rằng cùng với ý tưởng và nguyện vọng của nhiều người, tôi rất muốn phát triển khu di tích Núi Hứa – rừng cò trở thành điểm du lịch sinh thái. Hiện nay, Đầm Hà có rất nhiều địa danh mà nếu kết hợp với khu di tích Núi Hứa – rừng cò sẽ có thể tạo nên những tour du lịch khép kín rất hiệu quả. Chẳng hạn như: Đình Đầm Hà, Chùa Sâu, đảo Đá đen, Đập Đầm Hà Động, Núi Hứa – rừng cò… Nhưng cái khó chính là nguồn lực để đưa ý tưởng ấy thành hiện thực. Tới đây, tôi sẽ tham mưu để huyện xây dựng Nghị quyết chuyên đề về vấn đề này".

Đúng như những trăn trở của đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện, để có thể bảo tồn các di tích nói chung trên địa bàn, di tích Núi Hứa – rừng cò nói riêng đã khó thì việc khai thác các giá trị về mặt lịch sử, tinh thần, kinh tế còn khó hơn rất nhiều. Chỉ riêng việc bảo tồn, khai thác giá trị của khu vực Núi Hứa – rừng cò thôi cũng đã gặp rất nhiều "rào cản" khi mà nguồn lực đầu tư có hạn. Thực tế hiện nay, việc bảo tồn khu vực Núi Hứa – rừng cò dường như mới chỉ là bước khởi đầu. Từ đây để có thể khai thác được giá trị của khu di tích này, đưa khu di tích trở thành điểm du lịch sinh thái thì có lẽ còn phải cấn đến khoảng thời gian và nguồn lực kinh tế không nhỏ. Khu di tích Núi Hứa – rừng cò nằm cách trung tâm xã chừng 2km nhưng chỉ là đường đồng đất, ô tô không vào được đến nơi; thậm chí, có đoạn, đường bé xíu chỉ đủ cho 1 người đi bộ. Vì vậy, việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông đi lại chính là trở ngại đầu tiên. Thêm nữa, rừng cò Núi Hứa, dẫu hiện nay đã được khoanh vùng, bảo vệ nhưng vẫn thuộc diện tích rừng do nhà nước giao cho gia đình ông Hà quản lý, khai thác với thời gian 50 năm (giao từ năm 1996). Đàn cò tuy nhận được sự quan tâm, bảo vệ của gia đình ông Hà nhưng bây giờ tuổi vợ chồng ông cũng đã cao; để bảo vệ đàn cò, ông Hà chỉ có thể quản lý rừng mà không thể khai thác giá trị từ rừng để đảm bảo cuộc sống…

Thay lời kết

Chia tay rừng cò Núi Hứa, tôi chợt nhớ đến câu chuyện về Đảo Cò ở xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Đảo Cò nằm giữa lòng hồ An Dương đã trở thành điểm du lịch sinh thái mang lại giá trị kinh tế cao cho địa phương. Ban đầu chỉ từ sáng kiến của Hội Cựu chiến binh huyện Thanh Miện muốn bảo vệ, phát triển các loài chim quý trên đảo. Đến nay, công việc ấy, ngoài chính quyền địa phương còn có công sức không nhỏ của người dân. Bởi họ coi đảo cò là điềm lành, là vùng đất thiêng liêng của cả làng, cả xã. Nhờ vậy, Đảo Cò đã ngày càng được mở rộng, thu hút nhiều dự án đầu tư phát triển du lịch. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hải Dương cũng lên kế hoạch chuyển 6 hộ thuộc cụm dân cư phía đông Đảo Cò, tiến hành đào kênh chia cắt để tạo đảo mới cho cò, vạc về sinh sống. Hay như chuyện vườn cò lớn nhất ở Bắc Giang của ông Đặng Đình Quyển ở thôn Tân Phúc, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, Bắc Giang 2 lần bị rao bán vì không đủ sức trông nom sau gần 30 năm gắn bó. Ngẫm về rừng cò Núi Hứa, thấy thật chạnh lòng!??

Cẩm Nang



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét