Quần đảo Cô Tô – Thanh Lân có tổng diện tích khoảng 21.500ha và nổi tiếng với các bãi cát đẹp chạy dài trên 5-6km ven biển. Vịnh Cô Tô có nước trong xanh và là một trong những Vịnh có nguồn lợi trai ngọc lớn nhất Việt Nam. Các bãi cát, rừng ngập mặn, vịnh kín, các bãi triều rạn đá là nơi ở lý tưởng cho các loài sinh vật sinh trưởng và phát triển. Để góp phần vào kế hoạch sử dụng hợp lý và lâu bền quần đảo Cô Tô và bảo tồn hệ sinh thái đặc sắc, các nguồn gen quý hiếm ở khu vực thì việc bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học ở đây là rất cần thiết.
Theo kết quả đề tài Nghiên cứu bổ sung cơ sở khoa học cho việc quy hoạch, quản lý các khu bảo tồn biển Cát Bà (Hải Phòng) – Cô Tô (Quảng Ninh) của Viện Nghiên cứu hải sản Hải Phòng, quần đảo Cô Tô là khu vực có mức độ đa dạng sinh học cao nhất của các đảo tiền tiêu vùng Đông Bắc. Mức độ đa dạng sinh học của quần đảo Cô Tô được thể hiện ở sự hiện diện và phát triển của các hệ sinh thái biển điển hình, số lượng loài lớn, kể cả các loài quý hiếm và cũng là nơi tập trung các bãi hải sản lớn của Vịnh Bắc Bộ. Cũng theo kết quả nghiên cứu của đề tài này, quần đảo Cô Tô có hệ sinh thái rất đặc thù, gồm: Hệ sinh thái rạn san hô, vùng triều, các bãi cát dài và đẹp, rừng ngập mặn, rừng nhiệt đới trên đảo, hệ sinh thái đáy mềm… Mức độ đa dạng loài cao (953 loài thuỷ sinh vật), trong đó nhiều nhất là động thực vật phù du, động vật đáy cỡ lớn, cá biển và san hô.

Ngư dân Cô Tô thả rùa biển về môi trường tự nhiên.
Đặc biệt, các rạn san hô thuộc loại lớn, độ phủ khá cao và già cỗi. Bên cạnh đó, khu hệ sinh vật trên đất liền thuộc đảo Cô Tô tương đối giàu có, cho đến nay đã ghi nhận được 278 loài, gồm 248 loài thực vật và 30 loài động vật. Rong biển là một nhóm thực vật bậc thấp sống ở biển Cô Tô, đây là một hợp phần quan trọng của tài nguyên biển. Rong biển chẳng những là một nguồn tài nguyên quan trọng, có giá trị kinh tế mà từ lâu đã được con người sử dụng trong các lĩnh vực của cuộc sống. Có 66 loài rong biển, thuộc 4 ngành là rong Lam, rong Đỏ, rong Nâu và rong Lục. Do rong biển có tính mùa vụ rõ rệt nên việc tính sản lượng và trữ lượng chỉ có thể tính được vào thời điểm mùa vụ và có tính tức thời. Tuy nhiên, trong nhiều năm trở lại đây, nguồn lợi tự nhiên của rong biển tại hai vùng này gần như không được quan tâm và không thể tính được do phần lớn diện tích trước kia có phủ rong biển đến nay không còn nữa. Mặt khác do tập quán sử dụng rong biển trong nhân dân chưa nhiều, chỉ mới dùng làm phân bón hoặc chiết xuất agar từ rong câu. Sản xuất các biệt dược cũng đã được đặt ra, nhưng kết quả chưa đáng là bao. Vì vậy nguồn lợi rong biển hầu như bị bỏ phí. Với những đặc điểm ấy, quần đảo Cô Tô đã nhiều lần được đề xuất xây dựng thành khu bảo tồn biển. Năm 1995, Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng đề xuất thành lập khu bảo tồn biển đảo Cô Tô với diện tích 3.850ha. Năm 1998, đảo Cô Tô là 1 trong 15 vùng được Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất xây dựng thành khu bảo tồn biển.
Hiện nay, do nhu cầu cung cấp thực phẩm tươi sống đáp ứng nhu cầu ẩm thực, một số loại hải sản như cá song, hồng, tôm, cua, ghẹ, ốc và hai mảnh vỏ đã trở nên quý hiếm và với giá cao. Vì vậy, nuôi hải sản bằng lồng bè đang phát triển nhanh ở Cô Tô. Việc phát triển lồng bè thiếu quy hoạch sẽ dẫn đến sự suy giảm của các rạn san hô xung quanh, vì lượng thức ăn dư thừa và chất thải sẽ làm tăng dinh dưỡng trong nước biển, gây ô nhiễm môi trường. Các lồng bè còn làm cản trở dòng chảy giảm sự trao đổi nước với vùng biển mở. Mật độ lồng bè dày còn làm tăng độ đục, ngăn cản ánh sáng vào trong nước. Vào những ngày mưa bão các lồng bè được kéo vào những nơi kín gió mà ở đó có thể có san hô ở dưới. Nuôi cá lồng cũng làm tăng việc khai thác quá mức bằng việc đánh bắt các loài hải sản giống cho nuôi lồng và các loài cá làm thức ăn. Sự phát triển du lịch cũng ảnh hưởng đến rạn san hô. Ảnh hưởng trực tiếp là bơi lặn, đi trên rạn, thu lượm san hô và các sinh vật trên rạn của khách du lịch, neo đậu tàu thuyền du lịch một cách bừa bãi làm các rạn san hô ngày càng suy thoái. Ô nhiễm dầu đe doạ trực tiếp đến các rạn san hô khu vực Cô Tô, nguồn ô nhiễm dầu chủ yếu từ các phương tiện đánh bắt hải sản, tàu du lịch, các phương tiện vận tải thuỷ, cảng xăng dầu. Đặc biệt tại khu vực cảng Cô Tô, bãi Hồng Vàn, vụng Thanh Lân vào những ngày biển động ở mỗi khu vực tập trung hàng nghìn phương tiện đánh bắt, lượng dầu rò rỉ từ các tàu thuyền này rất lớn phát tán đi các vùng lân cận ảnh hưởng đến các hệ sinh thái dưới biển. Hiện nay ô nhiễm chất thải sinh hoạt vẫn chưa ảnh hưởng lớn đến khu vực Cô Tô nhưng với tốc độ phát triển hiện nay vấn đề này cần phải được đặt ra. Đặc biệt việc khai thác bằng thuốc gây mê, không chỉ huỷ diệt nguồn giống mà còn làm biến mất nơi sinh cư của các loài hải sản. Có thể thấy khu vực biển Cô Tô có nhiều tiềm năng về giá trị đa dạng sinh học nhưng do nhiều lý do khác nhau, đa dạng sinh học, nguồn lợi sinh vật đang có xu hướng bị suy giảm. Vì vậy vấn đề đặt ra cần phải bảo tồn những giá trị đa dạng sinh học ở đây. Việc quy hoạch vùng này thành khu bảo tồn biển với các chức năng nhiệm vụ rõ ràng cần phải nhanh chóng hoàn thiện.
Hiểu Trân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét