Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

Ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về Đề án phát triển kinh tế


Vừa qua, Bộ Chính trị đã có thông báo ý kiến kết luận về Đề án "Phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và thí điểm xây dựng hai đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái". Báo Quảng Ninh xin trích đăng nội dung chính của thông báo kết luận như sau:

Bộ Chính trị biểu dương và đánh giá cao tinh thần chủ động đổi mới, tìm tòi, sáng tạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh trong quá trình chuẩn bị Đề án. Đề án đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, bài bản, khoa học, tranh thủ được nhiều ý kiến của các bộ, ngành và nhà khoa học. Nội dung Đề án có nhiều thông tin, kiến thức phong phú, ý tưởng mới, táo bạo, quyết liệt; thể hiện tầm nhìn xa, chiến lược để đầu tư, xây dựng mô hình mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển xanh, bền vững; làm đầu tàu phát triển trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng. Nhiều đề xuất có cơ sở, nhưng có một số vấn đề có liên quan đến cả nước, khu vực cần được nghiên cứu sâu, chuẩn bị kỹ hơn để có cơ sở và tính thuyết phục cao hơn. Bộ Chính trị giao Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo; tỉnh Quảng Ninh chủ trì phối hợp với các bộ, ngành Trung ương khẩn trương hoàn chỉnh Đề án về "Xây dựng hai đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái", báo cáo Ban cán sự đảng Chính phủ để Ban cán sự đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định.

Quảng Ninh có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và đối ngoại; có tiềm năng và lợi thế so với các địa phương trong vùng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã có một số nghị quyết, chỉ thị, kết luận xác định những chủ trương liên quan đến xây dựng và phát triển Quảng Ninh. Trong đó, Kết luận số 47-KL/TW, ngày 6-5-2009 của Bộ Chính trị khoá X về "Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII và những chủ trương, giải pháp phát triển Quảng Ninh đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" là cơ sở chính trị quan trọng, đã tạo động lực thúc đẩy để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát trên kinh tế – xã hội, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và mở rộng đối ngoại.

Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh đã phát huy truyền thống đoàn kết, "kỷ luật, đồng tâm" của vùng mỏ anh hùng, quán triệt, vận dụng, tổ chức thực hiện nghiêm túc, sáng tạo các nghị quyết, kết luận của Trung ương và đạt được nhiều thành tựu khá toàn diện. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định, bình quân 3 năm 2009-2011, GDP tăng 11,65% năm (gấp 1,8 lần so với trung bình cả nước); GDP/đầu người năm 2011 đạt 2.264 USD, tăng gấp 2,34 lần so với năm 2008. Đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hoá tăng bình quân 35,6%/năm; an sinh xã hội tăng bình quân 59%/năm; chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 5 địa phương cao nhất cả nước. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối ngoại được mở rộng và tăng cường; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; tình trạng khai thác, vận chuyển, chế biến và kinh doanh than trái phép từng bước được đẩy lùi, ngăn chặn. Hệ thống chính trị, nhất là năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên; bộ máy chính quyền, mặt trận và đoàn thể không ngừng được củng cố, phát triển và hoạt động hiệu quả.

Thành tựu đạt được đã ngày càng khẳng định rõ hơn vai trò, vị trí của tỉnh Quảng Ninh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng; có đủ khả năng và tiềm lực để phát triển trở thành địa bàn động lực, cực tăng trưởng, đầu tàu, trung tâm kinh tế mạnh của vùng đồng bằng Sông Hồng, vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ.

Tuy nhiên, kinh tế – xã hội Quảng Ninh cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế yếu kém. Mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế vẫn còn bất hợp lý, phát triển chưa bền vững; chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công giá rẻ. Kết cấu hạ tầng đồng bộ còn yếu và thiếu những công trình mang tính động lực (đường cao tốc, sân bay, đường sắt, các thiết chế văn hoá, thể thao). Phát triển công nghiệp và đô thị "nóng" để lại hậu quả môi trường nghiêm trọng. Hàm lượng khoa học công nghệ trong sản xuất chưa cao, xuất khẩu chủ yếu chưa qua chế biến. Chỉ số ICOR cao. Cơ chế thu hút mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực từ bên ngoài chưa đủ cạnh tranh ở cấp khu vực và quốc tế. Các khu kinh tế thể chế chưa đủ mạnh, cơ chế, chính sách chưa đủ sức cạnh tranh, quản lý nhà nước còn trùng chéo giữa chính quyền hành chính và ban quản lý các khu kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực chưa tương xứng. Chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền còn lớn. Cải cách hành chính hiệu quả chưa cao… Kết luận 47-KL/TW, ngày 6-5-2009 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chưa được các bộ, ngành Trung ương quyết liệt chỉ đạo thực hiện có hiệu quả; nhiều chủ trương rất cụ thể nhưng chưa được triển khai thực hiện.

Quảng Ninh hiện đang đứng trước những mâu thuẫn, thách thức cơ bản trong quá trình phát triển đòi hỏi phải được nhận thức đầy đủ và tập trung giải quyết trong thời gian tới, đó là:

- Mâu thuẫn giữa tiềm năng lớn chưa được giải phóng toàn diện với một số thể chế, cơ chế, chính sách đang kìm hãm sự phát triển, với nguồn lực có hạn cả về con người và vật chất.

- Mâu thuẫn giữa phát triển công nghiệp, đặc biệt là khai thác than, đô thị hoá nhanh với phát triển du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn, nhất là ven bờ Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long đang gây hậu quả ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

- Thách thức đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng, nặng nề: vừa phải phát triển kinh tế nhanh, bền vững; vừa phải góp phần giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ một cách thường xuyên, trực tiếp ở một địa bàn tiền tiêu của Tổ quốc.

- Thách thức giữa phát triển nhanh, bền vững với gia tăng khoảng cách giàu nghèo và biến đổi khí hậu…
Cần tiếp tục thực hiện thắng lợi Kết luận 47-KL/TW của Bộ Chính trị với mục tiêu:

Đến năm 2020 xây dựng, phát triển Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, trung tâm du lịch quốc tế, một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc và cả nước; tích cực chuyển đổi phương thức phát triển từ "nâu" sang "xanh". Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện xoá đói, giảm nghèo bền vững; giảm nhanh khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Giữ gìn và phát huy tối đa bản sắc văn hoá dân tộc; bảo tồn và phát huy bền vững Di sản – Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị không ngừng vững mạnh…

Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương phối hợp với tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách cụ thể để thực hiện có hiệu quả. Trước mắt, giao Ban cán sự đảng Chính phủ xem xét, giải quyết các kiến nghị của tỉnh Quảng Ninh với các nội dung cụ thể sau đây:

- Được áp dụng một số cơ chế, chính sách ưu đãi hiện đang áp dụng cho các tỉnh, thành phố, các khu kinh tế và các cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp khác để triển khai thực hiện có kết quả những kiến nghị của tỉnh Quảng Ninh đã được Bộ Chính trị đồng ý tại Kết luận 47-KL/TW.

- Đầu tư thực hiện dự án tổng thể cải thiện môi trường tại tỉnh Quảng Ninh. Hàng năm, ngân sách Trung ương cấp bổ sung thêm tỉ lệ hợp lý từ số thu, ngoài tỷ lệ đã điều tiết hiện hành từ các loại thuế của ngành Than để thực hiện dự án.

- Bổ sung một số công trình hạ tầng quan trọng có ý nghĩa động lực, như đường cao tốc Hải Phòng – Hạ Long, Hạ Long – Móng Cái, sân bay Vân Đồn vào định hướng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của cả nước. Xây dựng cơ chế kêu gọi đầu tư nước ngoài và được ưu tiên hỗ trợ một phần ngân sách để xây dựng tư nguồn thu xuất nhập khẩu qua địa bàn từ nay đến năm 2020.

- Thành lập trường đại học đa ngành Quảng Ninh và các bệnh viện đạt tiêu chuẩn quốc tế ở Hạ Long, Vân Đồn, Móng Cái; được liên kết với các trường đại học lớn có uy tín trong nước để mở phân hiệu đào tạo và xúc tiến đầu tư kêu gọi thành lập trường đại học quốc tế và cao đẳng nghề tại Quảng Ninh, thông qua đó để chủ động tạo nguồn nhân lực và thu hút khách du lịch, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân…

- Thí điểm cho phép tỉnh Quảng Ninh được quy định mức phí, lệ phí hợp lý…; được cấp phép đối với hàng hoá xuất nhập khẩu; được xây dựng, bổ sung và quyết định một số chính sách đặc thù trong việc thu hồi, đền bù, giải phóng mặt bằng, giao đất để bảo đảm có quỹ đất sạch thu hút các nhà đầu tư.

- Đẩy mạnh triển khai và nâng mức vốn đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng quan trọng tuyến biên giới, biên đảo từ nguồn vốn hỗ trợ đầu tư phát triển có mục tiêu hàng năm; ưu tiên vốn ODA để tỉnh Quảng Ninh đầu tư phát triển hạ tầng quan trọng về giao thông, ứng phó biến đổi khí hậu, y tế, giáo dục…

Mở rộng mức vay nợ các công trình từ nguồn phát hành trái phiếu để triển khai thực hiện một số dự án quan trọng trong tỉnh nhưng bảo đảm tổng mức dư nợ không vượt quá mức 100% vốn đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm.

Thực hiện Kết luận 47 và những nội dung trên đây, trước hết là trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh, đồng thời là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân ở Trung ương. Bộ Chính trị đã giao Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các ban, bộ, ngành Trung ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao tích cực, chủ động phối hợp, hướng dẫn, hỗ trợ tỉnh Quảng Ninh tổ chức triển khai thực hiện có kết quả Kết luận 47 của Bộ Chính trị và những nội dung nêu trên.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét